Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn

Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 17. Giải thích phẩm Phân biệt công đức »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 17. Giải thích phẩm Phân biệt công đức

(Lượt xem: 26)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 17. Giải thích phẩm Phân biệt công đức

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Phân biệt công đức, thứ mười bảy

Giải thích tên phẩm

Phật thuyết giảng về tuổi thọ [của Như Lai], các đệ tử trong hai đời [quá khứ và hiện tại][1] đều được lợi ích, cho nên nói là công đức. [Sức công đức ấy] sâu cạn chẳng đồng nhau, cho nên gọi là phẩm Phân biệt công đức. Kinh văn phần này là đoạn thứ hai nói về thụ ký, thuộc phần bản môn. Luận giải phân chia kinh văn trong phẩm này có sức công đức nương theo giáo pháp (pháp lực) và sức công đức tu tập giáo pháp (tu hành lực).

Sức công đức nương giáo pháp có 5 phần. Thứ nhất là [công đức người] chứng biết giáo pháp, thứ hai là [công đức người] tin tưởng giáo pháp, thứ ba là [công đức người] cúng dường giáo pháp, đều như nói trong phẩm này. Thứ tư là [công đức người] nghe giáo pháp, như trong phẩm Công đức tùy hỷ. Thứ năm là [công đức người] đọc, tụng, gìn giữ, giảng nói giáo pháp. [Công đức người] đọc tụng giáo pháp thì như trong phẩm Công đức pháp sư. [Công đức người] gìn giữ giáo pháp thì như xem trong 3 phẩm: Công đức pháp sư, Hạnh an vui và Khuyến khích thọ trì. [Công đức người] giảng nói giáo pháp thì như trong phẩm Thần lực Như Lai và phẩm Phó thác về sau.

Về sức công đức tu hành giáo pháp thì có sức tu khổ hạnh như trong phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, sức tu hành giáo hóa như trong phẩm Bồ Tát Diệu Âm, giúp đỡ cứu nạn như trong phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm, phẩm Đà-la-ni, chỉ bày công đức như trong phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm, hộ trì chánh pháp như trong phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đại chúng trong Pháp hội được nghe Phật dạy về tuổi thọ của Như Lai dài lâu như vậy, liền có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sanh được lợi ích lớn.

Khi ấy, đức Thế Tôn nói với Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Khi ta nói về tuổi thọ dài lâu của Như Lai, có những chúng sanh nghe rồi đạt được pháp nhẫn vô sinh nhiều như số cát của sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha sông Hằng, lại có số Bồ Tát nhiều hơn gấp ngàn lần đạt được Văn trì đà-la-ni.[2]

“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của một thế giới đạt được Nhạo thuyết vô ngại biện tài.[3]

“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của một thế giới đạt được vô số trăm ngàn muôn ức Toàn Đà-la-ni.[4]

“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới đại thiên có thể chuyển bánh xe pháp bất thối; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới trung thiên có thể chuyển bánh xe pháp thanh tịnh; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới tiểu thiên trải qua tám lần tái sinh nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của bốn cõi tứ thiên hạ[5] trải qua bốn đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của ba cõi tứ thiên hạ trải qua ba đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của hai cõi tứ thiên hạ trải qua hai đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có số Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của một cõi tứ thiên hạ trải qua một đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Lại có những chúng sinh nhiều như số hạt bụi nhỏ của tám thế giới đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Ngài Quang Trạch nói: [Đoạn kinh] thứ nhất là dựa theo cửa vào công đức, thụ ký người tu hành tinh tấn, tu nhân trong hiện tại. [Đoạn] thứ hai là dựa theo cửa vào trí tuệ, thụ ký người giảm trừ biến dịch sinh tử, trong tương lai đạt được quả vị. [Đoạn] thứ ba là nêu việc hàng ngoại phàm [nghe thuyết tuổi thọ của Như Lai] liền phát tâm.[6]

Nói chung các việc thụ ký đều tương quan giữa nhân và quả. Ba phần như trên đều tương thông với việc thụ ký.

Phần dưới nói về “chúng sinh nhiều như số hạt bụi nhỏ của tám thế giới đều phát tâm”, lẽ ra nên kể đầu tiên. Bởi vì hàng ngoại phàm[7] nghe kinh rồi phát tâm, trụ ở giai vị tam thập tâm;[8] từ giai vị tam thập tâm, được nghe kinh thì vượt qua nội phàm, chứng Sơ địa, được vô sanh nhẫn; hàng Bồ Tát Sơ địa nghe kinh liền tiến lên thể nhập Nhị địa, đạt được Văn trì đà-la-ni; hàng Nhị địa nghe kinh liền vào được Tam địa, gọi là được Nhạo thuyết vô ngại biện tài; hàng Tam địa nghe kinh liền vào Tứ địa, được vô số Toàn Đà-la-ni; hàng Tứ địa nghe kinh rồi liền vào Ngũ địa, kinh văn gọi là “chuyển bánh xe pháp bất thối”; hàng Ngũ địa nghe kinh rồi vào Lục địa, kinh văn gọi là “chuyển bánh xe pháp thanh tịnh”.

Từ câu “Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới tiểu thiên” trở đi là dựa theo chỗ giảm thiểu biến dịch sinh tử mà thụ ký. Hàng Bồ Tát Thất địa đã đoạn trừ vô minh hoặc. Mê hoặc có 9 phẩm, có thể tạo tác nhân duyên 9 lần tái sanh. Từ hàng Bồ Tát Thất địa trở lên, quả báo không có kỳ hạn, khó có thể xét biết, chỉ lấy việc đoạn trừ 9 phẩm phiền não mà nói. Số lượng phiền não có trăm ngàn muôn phẩm loại, nay chỉ dựa vào một loại 9 phẩm mà nêu ý nghĩa.

Hàng Bồ Tát Thất địa đoạn trừ được hai phẩm phiền não, một thượng, một hạ; cho đến Bồ Tát Thập địa, mỗi địa cũng đoạn trừ được hai phẩm, một thượng, một hạ. Chứng nhập Kim Cang tâm đoạn trừ một phẩm.[9]

Hàng Bồ Tát Lục địa sau khi nghe kinh chứng được Thất địa hạ nhẫn[10] thì đoạn trừ được một phẩm phiền não, còn lại 8 phẩm làm nhân tái sinh trong 8 đời nữa, cho nên kinh văn nói “trải qua tám lần tái sinh nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Hàng Bồ Tát Thất địa thượng nhẫn đoạn trừ thêm một phẩm phiền não, tức giảm trừ được 2 lần tái sinh, còn lại 7 phẩm làm nhân tái sinh trong 7 đời. Các phẩm phiền não theo đó đều phân ra có thượng và hạ, đoạn trừ mỗi phẩm thì giảm trừ được một lần tái sinh. Kinh văn giản lược không nói đủ, nên từ câu “trải qua tám lần sinh nữa…” liền nói thẳng đến “qua bốn đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, cho đến còn lại một đời tức là giai đoạn tâm Kim cang sẽ đoạn trừ hết.

Luận Pháp hoa[11] nói rằng: Kinh văn nói “được pháp nhẫn vô sinh” là nói vào Sơ địa, chứng trí tuệ. Nên biết rằng từ “còn tám lần sinh” cho đến “còn một lần sinh” rồi chứng đạo Bồ-đề là nói hàng phàm phu quyết định có thể chứng Sơ địa, tùy số lần sinh còn lại, tiến dần lên còn một lần sinh, ắt sẽ chứng Bồ-đề.

Bồ-đề ở đây là lìa khỏi sinh tử phần đoạn trong ba cõi, dần dần từng bậc thấy được chân như, tánh Phật. Như vậy gọi là đạt được Bồ-đề, không phải nói Bồ-đề rốt ráo trọn đủ. Nay theo luận giải thì trước sâu, sau cạn; theo ngài Quang Trạch thì trước cạn, sau sâu. Hai bên [giải thích] trái ngược nhau, biết ai phán xét?

Nói về pháp nhẫn vô sanh thì kinh luận giải thích không giống nhau. [Luận] Ca-chiên-diên Tử nêu ra 5 pháp thành tựu, được bất thối chuyển, tức là giai vị của Bồ Tát lục độ.[12] Hàng Tu-đà-hoàn, dù là chứng trí hay đã đoạn phiền não, đều là được pháp nhẫn vô sanh như hàng Bồ Tát, tức là giai vị chung cho cả ba thừa. Bồ Tát lên Sơ địa đạt được pháp nhẫn vô sanh, đó là giai vị của Bồ Tát Biệt giáo. Bồ Tát lên Sơ trụ đạt được pháp nhẫn vô sanh, đó là giai vị của Bồ Tát Viên giáo. Những cách giải thích này đều từ lời dạy của các bậc Thánh, không thể tùy tiện lẫn lộn.

Lại nữa, kinh Tịnh Danh nói gần đến địa vị Vô đẳng đẳng,[13] đạt được pháp nhẫn vô sanh. Kinh Nhân vương nói, [từ trước] cho đến giai vị Kim cang đảnh đều gọi là phục nhẫn, cũng gọi là tịch diệt nhẫn. Hết thảy đều là các giai vị khác nhau của Biệt giáo và Viên giáo. Những ý nghĩa bao quát không thể vận dụng một cách cứng nhắc. Ngài Quang Trạch cho rằng Bồ Tát đã phát tâm là thuộc nội phàm, giai vị tam thập tâm là đạt pháp nhẫn vô sanh, tức là Sơ địa. Như vậy đều là cách gọi tên của Biệt giáo, không phải cách hiểu của Thông giáo. Từ Sơ địa lên đến Lục địa đều là tu tập phúc đức,[14] kinh Đại Bát Niết-bàn cho là hữu vi, hữu lậu, gọi là hàng tăng Thanh văn. Đây tức là ý nghĩa của Thông giáo. Từ Thất địa trở lên [dần dần] đoạn trừ chín phầm [phiền não là] nhân tái sanh, nhưng dù là Tiểu thừa hay Đại thừa, người đã đạt đến những giai vị ấy thì ai cũng đoạn trừ được, nên chưa đủ để phân biệt xác định. Nếu nói rằng Thất địa đoạn trừ được vô minh hoặc, thì đó không phải ý của Thông giáo, cũng không phải của Biệt giáo, chỉ là Biệt giáo nối ý của Thông giáo mà thôi. Cách giải thích của ngài Quang Trạch không xác quyết rõ ràng, không phù hợp với kinh Pháp hoa này.

Ngài Thiên Thân cho rằng Bồ Tát đã phát tâm tức là đạt được pháp nhẫn vô sanh, từ giai vị còn tám lần tái sanh cho đến còn một lần tái sanh. Phàm phu quyết định đoạn trừ quả báo, dứt hết tái sanh, vào bậc Sơ địa, được pháp nhẫn vô sanh. Giải thích như vậy hoàn toàn theo nghĩa của Biệt giáo, cũng không phù hợp với kinh này.

Nay phân chia kinh văn thành ba phần. Thứ nhất là phần tựa chung của người chép kinh, thứ hai là phần phân biệt của Như Lai, thứ ba là nói việc đại chúng cúng dường.

Phần thứ nhất thì y theo kinh văn có thể hiểu được.

Phần [thứ hai] nói nghĩa phân biệt là lời Phật nhiệm mầu vi diệu, không thể dựa theo các giai vị quyền thừa để giải thích kinh. Cho nên, kinh văn phần trước đã nói nghĩa khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật, nay theo nghĩa bản môn nói việc đạo hạnh tăng trưởng, sinh tử giảm trừ, đều phải dựa theo các giai vị của Viên giáo để giải thích.

[Kinh văn nói] phần sau nói “chúng sinh nhiều như số hạt bụi nhỏ của tám thế giới đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, đây là nói những người được sáu căn thanh tịnh, bắt đầu vào các giai vị Thập tín. Cho nên kinh Nhân vương nói: “Hàng Bồ Tát Thập thiện phát tâm Đại thừa, mãi mãi lìa xa biển khổ luân hồi trong ba cõi”, tức là ý nghĩa này.

[Kinh văn nói] “đạt được pháp nhẫn vô sinh” tức là vào giai vị Thập trụ. Cho nên kinh Hoa nghiêm nói: “Ban sơ ở Phát tâm trụ, một tâm phát khởi thì tất cả các tâm đều phát khởi. Đạt được thân Như Lai, một thân là vô lượng thân, Pháp thân nhiệm mầu thanh tịnh, tịch nhiên sâu lắng ứng hiện khắp thảy.” Tức là nói nghĩa này.

[Kinh văn nói] “đạt được Văn trì đà-la-ni” tức là vào các giai vị Thập hạnh; “đạt được Nhạo thuyết vô ngại biện tài” tức là vào các giai vị Thập hồi hướng.

[Kinh văn nói] đạt được “vô số trăm ngàn muôn ức Toàn Đà-la-ni” tức là vào Sơ địa; “có thể chuyển bánh xe pháp bất thối” tức là vào Nhị địa; “chuyển bánh xe pháp thanh tịnh” tức là vào Tam địa; còn phải “trải qua tám lần tái sinh nữa” tức là lên đến Tứ địa.

[Tiếp theo,] còn bảy lần tái sinh là vào Ngũ địa; còn sáu lần tái sinh là vào Lục địa; còn năm lần tái sinh là vào Thất địa.

[Kinh văn nói] “trải qua bốn đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là vào Bát địa; “trải qua ba đời nữa” là vào Cửu địa; “trải qua hai đời nữa” là vào Thập địa; “trải qua một đời nữa” là vào giai vị Đẳng giác tâm Kim cang.

Nếu luận về nghĩa tăng trưởng đạo hạnh, giảm trừ sinh tử thì không phải như ngài Quang Trạch nói đoạn trừ sự tái sinh do nhân tái sinh, không phải như ngài Thiên Thân đoạn trừ sự tái sinh do quả báo sinh, chỉ dựa vào trí đức để luận việc tăng trưởng, dựa vào đoạn đức để luận việc giảm trừ, dựa vào Pháp thân để luận sự sinh khởi, dựa vào vô minh để luận sự diệt trừ.

Như thí dụ mặt trăng trong kinh Đại Bát Niết-bàn, từ ngày mùng một cho đến ngày rằm thì ánh sáng dần dần tăng thêm, từ ngày 16 cho đến ngày cuối tháng thì ánh sáng dần dần giảm bớt. Dựa theo thể tánh của cùng một mặt trăng [vốn không thay đổi] mà luận về sự tăng thêm hay giảm bớt [ánh sáng], đó là thí dụ cho việc dùng Pháp thân mà luận về trí đức, đoạn đức.

Hoặc có thể là một người trong một thời có tám lượt tăng tiến; hoặc có thể là một đời, hoặc tám đời, hoặc vô số đời; hoặc có thể là một niệm, hoặc tám niệm, hoặc vô số niệm; hoặc có thể là số đông người nhiều như số hạt bụi nhỏ cũng đều như vậy. Cho nên không thể hạn cuộc nơi nhân tái sinh hay quả báo tái sinh; không thể tách rời sự tăng tiến của trí đức và đoạn đức để giải thích.

Xét về bản môn [trong kinh này], số người chứng đạo nhiều gấp bội so với những kinh khác; không chỉ là số lượng nhiều, mà thời gian hun đúc tu tập cũng lâu dài hơn. Từ bản nguyên xa xưa, [đức Phật] thương xót thị hiện hình tích chỉ bày dẫn dắt ở khắp mọi nơi, trong khoảng thời gian ở giữa vẫn thường cùng [với các đệ tử] gặp lại nhau, rất nhiều người nhờ đó được thuần thục căn cơ, đến đời này [Phật lại] dùng năm tầng bậc giáo pháp[15] tuần tự điều phục; [cuối cùng] thâu tóm đúc kết quy về hội nơi Pháp hoa. Ví như nhà nông mùa xuân gieo trồng, mùa hạ cày xới chăm bón, mùa thu thu hoạch về, mùa đông cất chứa bảo quản; cùng một lúc thu hoạch trọn vẹn. [Cho nên] kể từ khi Phật thuyết kinh Pháp hoa trở về sau, số người chứng đạo chỉ còn [thưa thớt] như lúa thóc rơi vãi sau vụ mùa được nhặt mót mà thôi.

KINH VĂN

Khi đức Phật nói về việc các vị Đại Bồ Tát được những lợi ích pháp lớn lao như vậy, từ giữa không trung mưa xuống hoa mạn-đà-la và ma-ha mạn-đà-la để rải khắp trên vô lượng trăm nghìn muôn ức tòa sư tử của các đức Phật [phân thân đang ngồi] dưới các cội cây báu, cùng rải khắp trên tòa sư tử trong tháp bảy báu của đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đức Như Lai Đa Bảo, vị Phật đã diệt độ từ rất lâu, và cũng rải lên tất cả các vị Đại Bồ Tát và bốn chúng đệ tử. Lại mưa xuống bột mịn hương chiên đàn, trầm thủy... Trên hư không tiếng trống trời tự vang lên[16] âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn loại y phục cõi trời có treo đính các chuỗi anh lạc bằng chân châu, ma-ni châu, như ý châu, đầy khắp cả chín phương.[17] Các lò hương báu được xông đốt bằng loại hương quý vô giá tự nhiên hiện đến khắp nơi để cúng dường đại chúng trong Pháp hội.

Phía trên mỗi một đức Phật [phân thân] đều có các vị Bồ Tát cầm phướn lọng theo thứ lớp cao dần, [từ mặt đất] lên đến tận cõi trời Phạm thiên. Các vị Bồ Tát này đều dùng âm thanh vi diệu xướng lên vô số bài tụng để ngợi khen xưng tán chư Phật.

Phần thứ ba nêu việc đại chúng khi ấy cúng dường. [Đại chúng] nghe giáo pháp sâu xa, được lợi ích lớn lao, muốn báo đáp ơn Phật nên thiết lễ cúng dường, cũng là mượn việc này để bày tỏ sự nhận hiểu. Phần trước [Phật thuyết giảng] về tích môn, các Bồ Tát cũng đã tỏ ngộ, nhưng việc khai mở chỉ bày vào tri kiến Phật[18] vẫn chưa hoàn tất, cho nên chưa trình bày ra. Đến khi phần thuyết giảng về bản môn đã xong, Bồ Tát Di-lặc mới đứng đầu thay mặt đại chúng bày tỏ sự nhận hiểu.

[Kinh văn nói] “các vị Bồ Tát cầm phướn lọng theo thứ lớp cao dần, [từ mặt đất] lên đến tận cõi trời Phạm thiên”. “Phướn” là nêu ý nghĩa xoay chuyển; “lọng” là nêu ý nghĩa che chở; “mặt đất” là nghĩa khởi đầu; “cõi trời Phạm thiên” là nghĩa thanh tịnh. Trí đức, đoạn đức nhiều lượt xoay chuyển; từ bi nhiều lần che chở, cao thấp cạn sâu không sai thứ lớp, “lên đến tận cõi trời Phạm thiên” là nghĩa biểu trưng cho các vị Bồ Tát tăng tiến đạo hạnh, giảm trừ sinh tử đến gần bậc Diệu giác, đạt đến cùng cực của sự thanh tịnh.

Nếu theo sự giải thích của ngài Thiên Thân thì chỉ đạt được Sơ địa một lần, làm sao có thể tương hợp với phần kinh văn này?

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Phật đọc kệ rằng:

“Phật thuyết pháp hy hữu,
Xưa nay chưa từng nghe.
Thế Tôn đại thần lực,
Tuổi thọ đến vô cùng.

Vô số chúng Phật tử,
Nghe Thế Tôn phân biệt,
Được nhiều lợi ích pháp,
Hoan hỷ khắp châu thân,
Đạt địa vị Bất thối,
Hoặc được đà-la-ni,
Hoặc Biện tài vô ngại,
Muôn ức Toàn tổng trì.

Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi cõi đại thiên,
Mỗi vị đều chuyển được,
Bánh xe pháp bất thối.

Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi cõi trung thiên,
Mỗi vị đều chuyển được,
Bánh xe pháp thanh tịnh.

Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi cõi tiểu thiên,
Còn tái sinh tám đời,
Sẽ thành tựu quả Phật.

Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi trong bốn cõi,
Hoặc ba cõi, hai cõi,
Một cõi tứ thiên hạ,
Đều tùy theo số cõi,
Sẽ tái sinh tương ứng,
Bốn, ba, hai, một đời,
Rồi thành tựu quả Phật.

Những chúng sanh như vậy,
Nghe Phật thọ lâu dài,
Được vô lượng quả báo,
Vô lậu và thanh tịnh.

Lại có chúng sanh nhiều,
Như bụi tám thế giới,
Nghe Phật nói tuổi thọ,
Đều phát tâm Vô thượng.

Đức Thế Tôn thuyết pháp,
Khó suy lường, nghĩ bàn,
Chúng sanh được lợi ích,
Như hư không vô biên.

Phần kệ tụng có 19 khổ kệ, chia ra làm 3 tổng đoạn.

Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ đầu tiên, tụng ý nghĩa đại chúng lúc đó đạt được sự nhận hiểu.

Tổng đoạn thứ hai gồm 9 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa đức Như Lai thuyết phân biệt [công đức].

KINH VĂN

Chư thiên cõi Phật khác,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đến rải hoa mạn-đà,
Cùng ma-ha mạn-đà.

Mưa chiên đàn, trầm thủy,
Chấp chới rơi khắp nơi,
Như chim trời bay liệng,
Cúng dường, xưng tán Phật.

Trống trời giữa không trung,
Tự vang âm vi diệu.
Ngàn muôn loại thiên y,
Xoay vòng rơi rơi xuống;
Lò hương báu hiện ra,
Xông ngát hương vô giá,
Đầy đủ khắp mọi nơi,
Cúng dường các đức Phật.

Có chúng Đại Bồ Tát,
Cầm lọng bảy báu che,
Cao đẹp muôn ức tầng,
Lên đến cõi Phạm thiên.
Trước mỗi một đức Phật,
Đều có treo phướn báu,
Ngâm muôn ngàn bài kệ,
Xưng tán chư Như Lai.

Tất cả việc như vậy,
Xưa nay chưa từng có,
Nghe Phật thọ vô cùng,
Hết thảy đều hoan hỷ.

Hồng danh Phật vang xa,
Lợi ích khắp mười phương,
Chúng sanh đủ căn lành,
Giúp vào tâm Vô thượng.

Tổng đoạn thứ ba gồm 8 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa đại chúng lúc đó cúng dường. [Kệ nói:] “Được vô lượng quả báo, vô lậu và thanh tịnh”, lấy nghĩa khác với hàng Nhị thừa có hạn lượng nên nói là “vô lượng”; do nhân nhiệm mầu chiêu cảm nên nói là “thanh tịnh”, cõi nước không có chướng ngại nên nói là “quả báo”, khác với hàng Nhị thừa không [chiêu cảm] quả báo [như vậy]. “Nghe Phật thọ lâu dài”, kinh văn nơi đây phân biệt xác định là vô lượng, làm sao có thể theo các vị cựu giải mà nói là có hạn lượng?

Các bậc thầy phương Nam cho rằng, kinh văn trường hàng từ sau bài kệ này trở đi là thuộc phần lưu thông, dẫn chứng trước đó trong phần thuyết giảng tích môn, phần nói về Bồ Tát Văn-thù trong hiện tại cũng là lưu thông.

Các bậc thầy phương Bắc thì cho rằng, bốn hạng đệ tử có niềm tin[19] hiện đang nghe kinh, do vậy xác định vẫn còn trong phần chánh thuyết.

Từ câu “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ” trở đi mới là phần lưu thông mà theo cách phân chia của hai phía Nam, Bắc đều vận dụng được.

Nay tạm theo cách phân chia của các bậc thầy phương Nam. Từ sau bài kệ này, [phần kinh văn còn lại] có 11 phẩm rưỡi, chia làm hai tổng phần.

Thứ nhất là từ chỗ này trở đi đến hết phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh, nêu công đức sâu xa của việc truyền rộng kinh này, khuyến khích sự lưu thông.

Thứ hai là từ phẩm Thần lực Như Lai trở đi [đến hết kinh] gồm 8 phẩm, chia làm hai phần phó thác và lưu thông, mỗi phần đều có ba tổng đoạn.

[Phần phó thác,] tổng đoạn thứ nhất gồm nửa phẩm này cùng trọn phẩm Công đức tùy hỷ, nêu nhân công đức phẩm trước để khuyến khích lưu thông kinh này.

Tổng đoạn thứ hai gồm phẩm Công đức pháp sư nêu quả công đức của phẩm trước để khuyến khích lưu thông, phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh dẫn việc tin tưởng được phúc, hủy báng chịu tội, chứng minh và khuyến khích lưu thông kinh này.

Tổng đoạn thứ ba gồm phẩm Thần lực Như Lai và phẩm Phó thác về sau, nêu việc phó thác về sau lưu thông kinh này.

Từ phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương trở đi gồm 5 phẩm dựa vào ý nghĩa giáo hóa chúng sanh mà khuyến khích lưu thông kinh này.

[Cuối cùng,] phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm là dựa vào việc tự hành trì để khuyến khích lưu thông.

Về nghĩa sinh khởi, đó là nói trong hiện tại nghe kinh có sự nhận hiểu chân thật hoặc tương tự, sẽ được lợi ích như phần trước đã nói. Nếu [người đời sau] trực tiếp được nghe một câu kinh mà sinh tâm tùy hỷ, công đức so ra cũng bằng như bốn hạng đệ tử có niềm tin hiện tại đang nghe kinh.

Vì đời tương lai không có Phật, sợ người đời nghi ngờ [kinh này] ít phước đức, nên Phật thuyết 5 phẩm nói về công đức[20] [thọ trì kinh này] sau khi Phật nhập diệt.

Vì gieo nhân công đức vi diệu ẩn mật, không như được quả công đức hiển nhiên sáng tỏ, cho nên Phật thuyết phẩm Công đức pháp sư.

Tuy đã nêu nhân quả, cũng không bằng như sự dẫn chứng rõ ràng, cho nên Phật thuyết phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh.

Tuy đã nêu nhân thuở xưa, cũng không bằng như thị hiện thần biến trong hiện tại, cho nên Phật thuyết phẩm Thần lực Như Lai.

Tuy đã thị hiện thần lực, cũng không bằng như [được Phật] xoa đầu phó thác, cho nên Phật thuyết phẩm Phó thác về sau.

Tuy đã phó thác chung [giữa đại chúng], cũng không bằng chỉ bày phương thức cốt yếu, xả thân giữ đạo, cho nên Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương.

Tuy đã răn dạy người giáo hóa, cũng không bằng răn dạy người được giáo hóa, tùy nơi nghe pháp đều nên sanh tâm nhớ tưởng đến Phật, cho nên Phật thuyết hai phẩm Bồ Tát Diệu Âm và Bồ Tát Quán Thế Âm.

Nếu người mới phát tâm hoằng truyền kinh điển, vốn không có thần lực, phải nương vào sự gìn giữ từ bên trong, cho nên Phật thuyết phẩm Đà-la-ni.

Vì cũng cần sự giúp đỡ bảo vệ bên ngoài, cho nên Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm và phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm.

Các phẩm [như vậy được sắp xếp] liên tục, tầng tầng lớp lớp nối liền nhau, đều là để khiến cho giáo pháp Đại thừa được hoằng truyền thông suốt.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Nếu có chúng sinh nào nghe nói về tuổi thọ của Phật dài lâu như vậy, chỉ cần khởi sinh dù chỉ một ý niệm tin hiểu thì công đức mà người ấy đạt được nhiều đến mức không có hạn lượng.

Sau phần kệ tụng, kinh văn trường hàng chia thành hai phần. Phần thứ nhất nói về bốn hạng đệ tử hiện tại có niềm tin; phần thứ hai nói về năm hạng người [tin nhận kinh này] sau khi Phật diệt độ.

Thế nào là bốn hạng đệ tử có niềm tin? [Trong số bốn hạng này,] xét khả năng giảng giải sơ lược kinh Pháp hoa này thì có ba hạng, khả năng giảng rộng thì có hai hạng, khả năng quán chiếu thành tựu chỉ có một hạng. Nhưng bốn hạng này đều có niềm tin [vào kinh này], cho nên gọi là bốn hạng đệ tử có niềm tin.

Về bốn hạng đệ tử có niềm tin, hạng thứ nhất là những người khởi sinh một niệm tin hiểu nhưng chưa có khả năng giảng giải; hạng thứ hai là những người có thêm khả năng giảng giải sơ lược; hạng thứ ba là những người có thêm khả năng vì người khác giảng rộng kinh này; hạng thứ tư là những người có niềm tin sâu xa, tu tập quán chiếu thành tựu.[21]

Phần đầu tiên nói về hạng thứ nhất có một niệm tin hiểu, gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng có ba phần. Thứ nhất nêu về hạng người này; thứ hai nêu công đức của họ; thứ ba, nêu giai vị và công hạnh không còn thối chuyển.

Bây giờ giải thích về “một niệm tin hiểu”. Đó là nói tùy theo chỗ được nghe kinh mà tức thời sáng tỏ thông suốt, tùy theo lời dạy [trong kinh] mà thể nhập không có chướng ngại. [Do đó] tin nhận rằng:

1. Hết thảy các pháp đều là Phật pháp.

2. Lại cũng tin rằng Phật pháp không ngăn cách với hết thảy các pháp, không đạt được Phật pháp thì không đạt được hết thảy các pháp.

3. Thấy được hết thảy các pháp thì cũng thấy được Phật pháp.

Mỗi một điều trên cũng là ba điều, ba điều cũng là một điều. Lại cũng có nghĩa [như kinh Duy-ma-cật nói] là “thực hành không phải đạo là thông đạt Phật đạo”, thực hành Phật đạo là thông đạt hết thảy các đạo; không đạt được Phật đạo với hết thảy các đạo mà thông đạt Phật đạo với hết thảy các đạo. Không có gì mà là có, nhưng có mà không có gì, cũng chẳng phải có chẳng phải không có. Giống như con đường chạy qua phía trước cửa nhà, thông suốt đến hết thảy các hướng đông, tây, nam, bắc, không có gì ngăn ngại. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mỗi khi có chỗ tiếp đối [trần cảnh] cũng đều như vậy. Không nghi ngại nên gọi là tin, nhận biết rõ ràng nên gọi là hiểu, đó là tâm có “một niệm tin hiểu”.

Như có lúc ngồi suy ngẫm, tùy theo chỗ suy ngẫm đó bỗng nhiên tỏ ngộ thông suốt, việc thông đạt ba chân lý[22] cũng giống như vậy. Tin hiểu như vậy gọi là giai vị thiết luân.[23]

Lại có cách giải thích khác, cho rằng [tin hiểu] như vậy chưa đủ gọi là giai vị thiết luân, chỉ là hạng mới phát tâm trong các giai vị thập tín. Vì người như vậy chưa được sáu căn thanh tịnh, cho nên chưa phải chính thức vào giai vị thiết luân.

KINH VĂN

“Nếu có thiện nam, thiện nữ nào vì cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà trong tám mươi muôn ức na-do-tha kiếp tu tập năm pháp ba-la-mật là Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, chỉ trừ Bát-nhã ba-la-mật, công đức của những người này so với công đức tin hiểu tuổi thọ của Phật không bằng được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn muôn ức… cho đến dùng các phép tính toán, thí dụ cũng không thể so sánh biết được.

“Người có công đức tin hiểu như vậy mà thối tâm Bồ-đề là điều không thể có.”

Phần thứ hai là suy lường [công đức của hạng người này]. Trước tiên luận tổng quát là không có hạn lượng; tiếp theo là suy lường phân biệt nhiều ít. Phần này lại chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất là nêu 5 pháp [ba-la-mật] qua bờ làm căn bản để suy lường. Bát-nhã tức là trí tuệ chân chánh hiện nay, cho nên nói trừ ra Bát-nhã ba-la-mật.

Hỏi: Nếu trừ ra Bát-nhã ba-la-mật thì năm pháp còn lại không thể gọi là ba-la-mật [qua bờ]?

Đáp: Tất cả đều vì cầu trí tuệ Phật, như hết sức thực hành bố thí và trì giới đến tận bờ mé, cũng có thể gọi là ba-la-mật [qua bờ]. Đây đều là nói theo ý có thứ lớp tuần tự.

Đoạn thứ hai từ câu “công đức của những người này” trở đi, nêu việc suy lường phân biệt nhiều ít.

Phần thứ ba từ câu “Người có công đức tin hiểu như vậy” trở đi nêu giai vị và công hạnh không còn thối chuyển. Sáu tâm ban đầu trong Thập trụ của Biệt giáo vẫn còn thối thất, đến tâm thứ bảy không còn thối thất. Trong Viên giáo thì ngay từ Sơ trụ[24] [của Thập trụ] đã không còn thối chuyển.

Được nghe phẩm Tuổi thọ của Như Lai nên có công đức từ bên ngoài giúp vào; trọn lòng tin theo, nhận hiểu [ý kinh] là được hun đúc từ bên trong, cho nên không còn thối chuyển. Đại phẩm [Bát-nhã] nói “có Bồ Tát thối chuyển, có Bồ Tát không thối chuyển”, lại “có ma chướng hoặc không có ma chướng”, đều là ý nghĩa này.

KINH VĂN

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Có người cầu trí Phật,
Trong số kiếp tám mươi
Muôn ức na-do-tha
Tu năm ba-la-mật.

Trong suốt những kiếp ấy,
Bố thí, cúng dường Phật,
Các đệ tử Duyên giác,
Cùng đại chúng Bồ Tát,
Những món ăn quý lạ,
Y phục, chỗ nằm ngồi,
Dựng tinh xá chiên đàn,
Có vườn rừng trang nghiêm.

Tu bố thí như vậy,
Mọi thứ đều vi diệu,
Đến hết số kiếp ấy,
Hồi hướng cầu quả Phật.

Lại nghiêm trì giới luật,
Thanh khiết không vấy bẩn,
Tâm cầu đạo Vô thượng,
Chư Phật đều ngợi khen.

Lại thực hành nhẫn nhục,
Tự điều phục, nhu hòa,
Gặp đủ điều xấu ác,
Tâm không hề xao động.

Bị những người học pháp,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Theo khinh chê, não loạn,
Vẫn có thể nhẫn chịu.[25]

Lại chuyên cần tinh tấn,
Giữ chí niệm kiên cố,
Trong vô số ức kiếp,
Một lòng không lười nghỉ.

Lại trong vô số kiếp,
Thường sống nơi thanh vắng,
Hoặc ngồi thiền, kinh hành,
Nhiếp tâm, trừ lúc ngủ.

Do nhân duyên như vậy,
Được các pháp thiền định,
Tám mươi muôn ức kiếp,
Tâm an trụ không loạn.
Dùng phước nhất tâm ấy,
Nguyện cầu đạo Vô thượng.

Ta đạt Nhất thiết trí,
Tận cùng các thiền định,
Thấy rõ người trải qua,
Trăm ngàn muôn ức kiếp,
Thực hành các công đức,
Như ta vừa nói trên;

So với nam hoặc nữ,
Nghe ta nói tuổi thọ,
Dù chỉ một niệm tin,
Phước đức hơn người kia.

Nếu người nào dứt sạch
Mọi nghi ngờ hối tiếc,
Tin sâu trong thoáng chốc,
Cũng được phước như vậy.

Với các vị Bồ Tát,
Vô số kiếp tu hành,
Nghe ta nói tuổi thọ,
Liền đủ sức tin nhận.

Các Bồ Tát như thế,
Cung kính nhận kinh này:
‘Nguyện chúng con đời sau,
Sống lâu độ chúng sanh;
Như Thế Tôn ngày nay,
Vua trong dòng họ Thích,
Sư tử chốn Đạo trường,
Thuyết pháp không sợ hãi.

Chúng con trong đời sau,
Được chúng sanh tôn kính,
Cũng ngồi nơi Đạo trường,
Nói tuổi thọ lâu dài.’

Nếu có người tin sâu,
Tâm thanh tịnh, chân thật,
Nghe nhiều, ghi nhớ hết,
Tùy nghĩa giảng lời Phật,
Với những người như thế,
Có thể không hoài nghi.”

Phần kệ tụng có 19 khổ rưỡi kệ, [cũng chia làm 3 đoạn].

Đoạn thứ nhất gồm 12 khổ kệ, trước tiên tụng về lại nghĩa suy lường phân biệt nhiều ít.

Đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, tụng ngược[26] về nghĩa nêu hình tướng người ở trước.

Đoạn thứ ba gồm 5 khổ kệ, tụng lại về giai vị và công hạnh không thối chuyển.

Kệ nói “Vô số kiếp tu hành” nghĩa là đã từ lâu tu tập các pháp ba-la-mật. “Nguyện chúng con đời sau” tức là khởi tâm nguyện từ bi. Nhờ sự tu hành và phát nguyện từ lâu nên nghe kinh liền tin hiểu. Nay ở phần đầu phẩm này chỉ vừa mới được nghe kinh, có một niệm tin hiểu, công đức ấy lại ngang bằng với người tu hành đã lâu, lại còn hơn thế nữa.

KINH VĂN

“Lại nữa, này A-dật-đa! Nếu có người nghe nói tuổi thọ của Phật lâu dài, hiểu rõ được lời ấy, thì công đức người ấy đạt được không có giới hạn, có thể khởi sinh trí tuệ Vô thượng Như Lai. Huống chi là người có thể rộng nghe kinh này, hoặc bảo người khác nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc bảo người khác thọ trì, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, hoặc dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng che, dầu thơm, đèn bơ[27] để cúng dường kinh này, công đức của người ấy là vô lượng vô biên, có thể khởi sinh Nhất thiết chủng trí.[28]

Từ câu “Lại nữa, này A-dật-đa! Nếu có người nghe nói tuổi thọ của Phật lâu dài” trở đi là nói về hạng [đệ tử có niềm tin] thứ hai. Hạng đệ tử trước chỉ có khả năng tin hiểu nhưng không thể giảng thuyết. Thuyết giảng liên kết danh xưng số lượng cần phải biết dùng lời khéo léo tốt đẹp, nay hạng đệ tử này có đủ [khả năng ấy], cho nên nói là vì người khác giảng thuyết. Do sự vượt hơn mà gọi tên, cho nên gọi là hạng thứ hai. Do sức thuyết giảng nên có thể tự mình và giúp cho người khác đều được “khởi sinh trí tuệ Vô thượng Như Lai”. Kinh văn phần này trước tiên nêu tướng trạng, tiếp theo là suy lường công đức.

Từ câu “Huống chi là người có thể rộng nghe kinh này” trở đi là nói về hạng thứ ba, nghe nhiều hiểu rộng, có thể rộng vì người khác thuyết giảng, rộng tu cúng dường. Cúng dường là sự hỗ trợ từ bên ngoài, giúp cho trí tuệ bên trong nhanh chóng thể nhập nên “có thể khởi sinh Nhất thiết chủng trí”. Phần này trước tiên nêu tướng trạng của hạng người, tiếp theo nói việc suy lường [phân biệt công đức].

KINH VĂN

“Này A-dật-đa! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe ta nói về tuổi thọ lâu dài, tin sâu nhận hiểu, người ấy sẽ thấy Phật vẫn thường thuyết pháp tại núi Kỳ-xà-quật, có các vị Đại Bồ Tát và chúng Thanh văn cung kính vây quanh, lại cũng thấy được khắp thế giới Ta-bà này mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng ngay ngắn, dùng vàng diêm-phù-đàn[29] giăng theo bên đường đi về tám hướng,[30] có cây báu thẳng hàng, có lầu gác, đài quán đều làm bằng các món báu, đại chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu người nào có thể thấy được như vậy, nên biết đó là tướng trạng của sự tin sâu nhận hiểu.”

Tiếp theo từ câu “Này A-dật-đa…” trở đi là nói về hạng đệ tử có niềm tin thứ tư, có đầy đủ [các phẩm tính] của ba hạng trước, cộng thêm tu tập quán hạnh. Nhập thiền định vận dụng trí tuệ, quán tưởng thành tựu thì hình tướng sinh khởi, có thể thấy được tướng mạo của hai cõi Hữu dư và Thật báo.

“Thấy Phật vẫn thường thuyết pháp tại núi Kỳ-xà-quật, có các vị Đại Bồ Tát và chúng Thanh văn cung kính vây quanh” là tướng trạng của cõi Phương tiện hữu dư.

“Lại cũng thấy được khắp thế giới Ta-bà này… đại chúng Bồ Tát đều ở trong đó” là tướng trạng cõi Thật báo.

Hai hạng đệ tử có niềm tin đầu tiên là ở giai vị Văn tuệ, hạng [thứ ba] nghe nhiều giảng rộng là giai vị Tư tuệ, hạng [thứ tư] tu quán hạnh quán tưởng thành tựu là giai vị Tu tuệ. [Cả bốn hạng đệ tử này, công hạnh] từ cạn đến sâu, thành tựu sáu căn thanh tịnh, tức là giai vị Thập tín.

KINH VĂN

“Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu người nào nghe kinh này mà không chê bai lại sinh lòng vui theo, nên biết đó cũng là tướng trạng của sự tin hiểu; huống chi là người tụng đọc, thọ trì, người ấy chính là đang cung kính đầu đội Như Lai.[31] Này A-dật-đa! Người thiện nam hay thiện nữ đó không cần phải vì ta mà dựng chùa tháp phụng thờ, cũng không cần xây dựng tăng phòng, dùng bốn sự thiết yếu[32] cúng dường chúng tăng. Vì sao vậy? Vì những thiện nam, thiện nữ ấy thọ trì, đọc tụng kinh này tức là đã dựng chùa tháp, đã xây dựng tăng phòng, cúng dường chúng tăng; tức là đã dựng tháp bằng bảy báu thờ xá-lợi Phật, bên dưới to rộng bên trên nhỏ dần, cao lên đến tận cõi Phạm thiên, có treo phướn lọng cùng những chuông báu nhỏ với hoa, hương, chuỗi ngọc, cùng các loại hương bột, hương thoa, hương đốt, dùng các loại trống, nhạc, ống tiêu, ống địch,[33] đàn không hầu, đủ các loại vũ khúc và âm thanh vi diệu để ngợi ca tán tụng; tức là đã trải qua vô lượng ngàn muôn ức kiếp làm việc cúng dường như vậy.

“Này A-dật-đa! Nếu sau khi ta diệt độ có người nào nghe kinh điển này rồi có khả năng thọ trì, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, đó là đã xây dựng tăng phòng, dùng chiên đàn đỏ dựng thành ba mươi hai tòa điện đường,[34] cao bằng tám cây đa-la,[35] tăng phòng rộng đẹp trang nghiêm, đủ chỗ cho trăm ngàn vị tỳ-kheo cùng ở trong đó,[36] lại có đủ vườn rừng, hồ tắm, đường đi kinh hành, hang ngồi thiền; có đủ y phục, thức ăn uống, giường đệm, thuốc men trị bệnh, đủ mọi tiện nghi; những tăng phòng, điện đường lầu gác giống như vậy, số lượng nhiều đến bao nhiêu ngàn muôn ức cho đến vô số lượng, đều giống như hiện nay đã dùng để cúng dường ta cùng với chư tỳ-kheo tăng.

“Do vậy nên ta nói rằng: ‘Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì, tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, cúng dường kinh này, người ấy không cần phải dựng chùa tháp cũng như xây dựng tăng phòng, cúng dường chúng tăng.’

Từ câu “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ” trở đi là nói về năm hạng người [tin nhận kinh này]. Kinh văn lại chia làm hai đoạn. Đoạn trước tiên nêu 5 hạng người, suy lường phân biệt so sánh công đức của 4 hạng sau. Đoạn sau nói về hạng người tùy hỷ, suy lường phân biệt công đức của hạng đầu tiên.

Hỏi: Tại sao lại như vậy ?

Đáp: Vì bốn hạng sau suy lường phân biệt sơ sài, còn hạng [tùy hỷ] đầu tiên nêu việc suy lường phân biệt mở rộng. Khi đã suy lường phân biệt mở rộng rồi, nêu sự so sánh hơn thế nữa thì có thể hiểu được ý nghĩa. Đức Phật không nói nhiều rườm rà mà khéo léo diễn đạt như vậy.

Năm hạng người đó, thứ nhất là trực tiếp khởi tâm tùy hỷ, thứ hai là thêm tự mình thọ trì đọc tụng, thứ ba là thêm khuyến khích người khác thọ trì đọc tụng, thứ tư là tu tập thêm sáu ba-la-mật, thứ năm là chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật. Năm hạng người này, nói chung đều thuộc hạng tự mình hành trì và giáo hóa người khác, như kinh văn phần sau nói có 50 người tuần tự truyền dạy cho nhau. Những ai tự hành trì đều gọi chung là đệ tử; những ai giáo hóa người khác đều gọi chung là pháp sư. Nếu xét riêng thì [trong đó có] 2 hạng chỉ tự mình hành trì, có 3 hạng đầy đủ luôn cả việc giáo hóa người khác. Dùng danh hiệu pháp sư chỉ để gọi 3 hạng sau, không phải cho cả 5 hạng. Việc tự hành trì có ở cả 5 hạng nên đều gọi chung là đệ tử. Hạng đầu tiên chỉ được nêu tướng trạng người mà thôi, việc suy lường phân biệt công đức nói ở phần sau.

Từ câu “huống chi là người” trở đi là nói hạng thứ hai, nêu rõ người có khả năng thọ trì đọc tụng. Việc nêu ra hạng người có thể hiểu được. Câu “người ấy chính là đang cung kính đầu đội Như Lai” không phải là suy lường công đức.

Người mới phát tâm, vì sợ sự khuấy động của ngoại duyên làm chướng ngại việc tu nghiệp chân chánh nên chỉ một lòng chuyên trì kinh này, đó tức là sự cúng dường bậc thượng. [Nếu có thể] bỏ sự tướng giữ theo lẽ thật thì lợi ích càng rộng lớn hơn.

Về sau khi trong tâm đã quán chiếu thành thục, dù tiếp xúc ngoại duyên cũng không gây chướng ngại nội tâm, mọi sự việc đều có thể giúp thêm cho việc tu đạo, như thêm dầu nhiều thì lửa cháy mạnh, như thuyền xuôi dòng nước lại thêm giương buồm. Nếu tăng thêm sức lực công phu tu tập thì thế lực chuyển hóa càng nhanh hơn. Ý chỉ của kinh văn chính là pháp thân xá-lợi nên không cần phải an trí sinh thân xá-lợi.[37] Nếu giảng giải kinh văn thì người giảng giải và kinh văn được giảng giải chính là tháp thờ, không cần đến tháp bằng hình tướng. Kinh văn có thể hàm chứa tăng theo đệ nhất nghĩa, không cần phải đợi nương theo tăng.

Hỏi: Nếu vậy thì trì kinh tức là giữ giới theo đệ nhất nghĩa, sao kinh văn còn nói “lại có thể trì giới thanh tịnh”?

Đáp: Đây là ý nói về hạng đầu tiên,[38] không nên dùng để chất vấn với các hạng sau đó. Nếu muốn giải thích thì trì kinh tức là thuận theo giới về mặt lý thể, cũng là tự nhiên giữ được các giới ba-la-di và tăng tàn.[39] Nay kinh văn nói “có thể trì giới thanh tịnh” là nói từ các giới ba-dật-đề trở đi,[40] trong mọi hành vi đều không có sự thiếu sót phạm vào. Hạng người thứ ba có khả năng giáo hóa người khác, chính là nói ý này.

[Kinh văn] trước tiên nêu ra hạng người này, sau đó từ câu “đã xây dựng tăng phòng” trở đi là [nêu các chi tiết] suy lường công đức.

KINH VĂN

“Huống chi là người có thể thọ trì kinh này, lại thêm thực hành các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,[41] trí tuệ thì công đức của người này là thù thắng nhất, là vô lượng vô biên. Cũng giống như hư không về các phương đông, tây, nam, bắc, bốn phương phụ[42] và phương trên, phương dưới đều là vô lượng vô biên, công đức của người này cũng vô lượng vô biên như vậy, sẽ nhanh chóng đạt đến Nhất thiết chủng trí.

Từ câu “Huống chi là người có thể thọ trì kinh này, lại thêm…” trở đi là nói hạng người thứ tư. “Lại thêm thực hành các pháp” ba-la-mật là hạng người này vậy. Trước tiên nêu ra hạng người, sau đó từ câu “công đức của người này là thù thắng nhất” trở đi là suy lường công đức.

KINH VĂN

“Nếu có người tụng đọc, thọ trì kinh này, vì người khác giảng nói, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, lại còn có thể dựng tháp thờ, xây dựng tăng phòng, cúng dường, ngợi khen, xưng tán các vị Thanh văn, lại cũng dùng trăm ngàn muôn ức cách ngợi khen xưng tán để xưng tán công đức các vị Bồ Tát, lại vì người khác mà thuận theo đủ mọi nhân duyên, tùy nghĩa thích hợp để giảng giải kinh Pháp hoa này, lại có thể trì giới thanh tịnh, cùng người nhu hòa sống chung luôn nhẫn nhục không sân hận, chí niệm kiên cố, thường muốn ngồi thiền đạt định thâm sâu, tinh tấn dũng mãnh gồm thâu các pháp lành, căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, khéo giải đáp những câu hỏi khó; này A-dật-đa, sau khi ta diệt độ, những thiên nam, thiện nữ nào thọ trì, tụng đọc kinh điển này, lại có đủ những công đức lành như vậy, nên biết rằng những người ấy đã hướng đến đạo trường, ngồi dưới cội Bồ-đề, đến gần quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.[43]

“Này A-dật-đa! Những nơi nào mà các thiện nam hoặc thiện nữ ấy đã từng đi đứng nằm ngồi đều nên dựng tháp, hết thảy chư thiên và loài người đều nên cúng dường như cúng dường tháp Phật.”

Từ câu “Nếu có người tụng đọc” trở đi là nói hạng người thứ năm. Có thể chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật là hạng người này. [Kinh văn] trước tiên nêu hạng người, sau đó từ câu “này A-dật-đa, sau khi ta diệt độ” trở đi là suy lường công đức.

Tóm lại về năm hạng người này, ba hạng trước là thuộc giai vị Văn tuệ, [hạng thứ tư] thêm việc thực hành sáu ba-la-mật là giai vị Tư tuệ, [hạng thứ năm] chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật là giai vị Tu tuệ. Tất cả đều là còn ở trước các giai vị Thập tín.

Hoặc có người cho rằng hạng đầu tiên khởi tâm tùy hỷ là vào được giai vị Tín tâm, theo sự phân chia mỗi hạng là 2 tâm, 5 hạng là 10 tâm trong Thập tín tâm, tức là giai vị Thiết luân, đã được sáu căn thanh tịnh.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Sau khi ta diệt độ,
Có thể trì kinh này,
Người ấy phước vô lượng,
Như trên đã nói rõ.

Như vậy là trọn đủ,
Hết thảy pháp cúng dường,
Như dựng tháp xá-lợi,
Dùng bảy báu trang nghiêm,
Hình dáng rất cao rộng,
Nhỏ dần đến Phạm thiên,
Ngàn muôn ức chuông báu,
Gió lay, ngân diệu âm.

Lại như vô lượng kiếp,
Cúng dường tháp báu ấy,
Dùng hoa, hương, chuỗi ngọc,
Áo trời cùng âm nhạc,
Đốt hương, dùng đèn bơ,
Thắp sáng chung quanh tháp.

Thời mạt pháp xấu ác,
Ai thọ trì kinh này,
Tức là đã cúng dường,
Đầy đủ như nói trên.

Nếu thọ trì kinh này,
Giống như Phật hiện còn,
Dùng chiên đàn Ngưu đầu,
Dựng tăng phòng cúng dường,
Đủ ba mươi hai tòa,
Cao tám cây đa-la,
Món ngon, y phục tốt,
Có đầy đủ giường nằm,
Tăng chúng trăm ngàn vị;
Có vườn rừng, ao tắm,
Đường kinh hành, hang thiền,
Mọi thứ đều tốt đẹp.

Nếu có lòng tin hiểu,
Thọ trì, tụng, sao chép,
Hoặc bảo người sao chép,
Cùng cúng dường kinh này,
Rải hoa thơm, bột hương,
Hoa tu-mạn, chiêm-bặc,
A-đề-mục-đa-ca,
Thường thắp đèn dầu thơm.

Người cúng dường như vậy,
Được công đức vô lượng,
Như hư không vô biên,
Phước đức ấy vô cùng.

Huống chi trì kinh này,
Lại bố thí, trì giới,
Nhẫn nhục, vui thiền định,
Không sân hận nói ác.

Cung kính nơi chùa tháp,
Khiêm hạ với tỳ-kheo,
Xa lìa tâm cao ngạo,
Thường suy xét trí tuệ,
Bị chất vấn không giận,
Giảng giải thuận ý người.
Nếu làm được như vậy,
Công đức thật vô lượng.

Nếu gặp bậc pháp sư,
Thành tựu công đức ấy,
Nên rải xuống hoa trời,
Áo trời che thân người,
Đầu, mặt cúi sát chân,
Đảnh lễ, tưởng như Phật,

Khi ấy nên nghĩ rằng:
‘Vị này không bao lâu,
Sẽ đến cội Bồ-đề,
Thành Phật, độ trời người.’

Nơi vị ấy cư trú,
Đi kinh hành, nằm, ngồi,
Nói ra một bài kệ…
Ở đó nên dựng tháp,
Trang nghiêm, thật tốt đẹp,
Dùng mọi thứ cúng dường.

Con Phật ở nơi nào,
Cũng như tự thân Phật,
Thường ở tại nơi ấy,
Kinh hành hoặc nằm, ngồi.”

Phần kệ tụng tiếp theo có 19 khổ rưỡi kệ [chia làm 4 đoạn].

Đoạn thứ nhất 5 khổ rưỡi kệ, tụng về hạng người thứ hai.

Đoạn thứ hai từ câu “Nếu thọ trì kinh này” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về hạng người thứ ba.

Đoạn thứ ba từ câu “Nếu có lòng tin hiểu” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng về hạng người thứ tư.

Đoạn thứ tư từ câu “Cung kính nơi chùa tháp” trở đi gồm 7 khổ kệ, tụng về hạng người thứ năm. “Đảnh lễ, tưởng như Phật” là nói ban sơ nương tựa theo người có danh hiệu Như Lai. “Vị này không bao lâu, sẽ đến cội Bồ-đề” là nói đã đạt giai vị Thiết luân,[44] không bao lâu sẽ đạt đến giai vị Đồng luân,[45] có thể hiện tám tướng thành Phật.[46] Hướng đến đạo tràng là hành xứ, Tam-bồ-đề là cận xứ.

Hạng người thứ năm với hạng đệ tử thứ tư trong tứ tín đều cùng thuộc giai vị Tu tuệ. Nếu luận về thể nhập giai vị thì đều là giai vị sáu căn thanh tịnh, chỉ có sự khác biệt giữa hiện Phật tại thế và vị lai sau khi Phật nhập diệt mà thôi.[47] Đại lược là như vậy.

______________________


CHÚ THÍCH

[1] Văn Cú nói “nhị thế” (二世) chỉ hai đời. Văn Cú ký giải thích rằng, ở đây chỉ đến chúng Bồ Tát từ lòng đất vọt lên là đệ tử trong đời quá khứ, thính chúng trên đỉnh Linh Thứu là đệ tử trong đời hiện tại.

[2] Văn trì đà-la-ni (聞持陀羅尼), là pháp tổng trì giúp hành giả khi đạt được có khả năng nghe và ghi nhớ không quên.

[3] Nhạo thuyết vô ngại biện tài (樂說無礙辯才), là một trong Tứ biện tài (四辯才) hay cũng gọi là Tứ vô ngại giải (四無礙解). Hành giả đạt được biện tài này có thể vui thích thuyết giảng giáo pháp không có gì ngăn ngại.

[4] Toàn Đà-la-ni (旋陀羅尼) là một trong ba pháp đà-la-ni sẽ được trình bày trong phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyên phát tâm (thứ 28) của kinh Pháp hoa. Toàn Đà-la-ni có công năng chuyển hóa tâm bám chấp hình tướng của phàm phu để đạt đến nhận thức đúng thật về tánh không của tất cả các pháp, nên tương đương với quán Không trong Tam quán của tông Thiên Thai. Phẩm Phổ Hiền cũng nói đến pháp Bá thiên vạn ức Toàn đà-la-ni, nhưng ở đây kinh văn nói “Bá thiên vạn ức vô lượng Toàn đà-la-ni” nên không phải chỉ pháp đà-la-ni này.

[5] Tứ thiên hạ (四天下), mỗi thế giới có một cõi tứ thiên hạ, bao gồm 4 châu nằm về 4 hướng, như cõi Ta-bà có cõi tứ thiên hạ bao gồm Câu-lô châu, hay Uất-đan-việt châu nằm về phương bắc, Thiệm-bộ châu hay Diêm-phù-đề châu nằm về phương nam, Ngưu-hóa châu hay Cồ-da-ni châu nằm về phương tây, Thắng-thần châu hay Phất-bà-đề châu nằm về phương đông.

[6] Đây là nói về ba phần kinh văn mở đầu đức Phật nói về những chúng sanh được lợi ích sau khi nghe Phật thuyết dạy về tuổi thọ của Như Lai.

[7] Ngoại phàm: phàm phu và các giai vị sơ cơ, xem như chưa bước vào cảnh giới của các bậc thánh.

[8] Giai vị tam thập tâm: hành giả đã được sáu căn thanh tịnh nhưng chưa vào Sơ địa.

[9] Phần này liệt kê từ hàng Bồ Tát Thất địa trừ được 2 phẩm phiền não, cho đến Bát địa, Cửu địa, Thập địa cũng đều như vậy, nên trừ được cả thảy 8 phẩm, cho đến chứng nhập Kim cang tâm là tâm cuối cùng trước khi thành Phật thì đoạn trừ một phẩm cuối cùng. Đây là đang trình bày theo cách giải thích của ngài Quang Trạch.

[10] Ở đây, dựa vào khả năng đoạn trừ phiền não có 2 phẩm thượng, hạ như đã nói, Bồ Tát ở mỗi giai vị được phân ra thành hạ nhẫn và thượng nhẫn.

[11] Do phần dẫn ý tiếp theo nên biết là đang nói đến bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu-ba-đề-xá (妙法蓮華經論優波提舍) của ngài Thiên Thân (Thế Thân).

[12] Chỉ giai vị của hàng Bồ Tát khi tu tập đồng thời 6 ba-la-mật cho trọn đủ công hạnh để bắt đầu tiến lên Sơ địa.

[13] Vô đẳng đẳng: chỉ quả vị Phật, vì không giai vị nào khác có thể sánh bằng nên gọi là vô đẳng đẳng.

[14] Nguyên tác là “phúc đức môn” (福德門), phân biệt với “trí tuệ môn” (智慧門), chỉ hai phương thức tu tập. Tu tập phúc đức tức là nhấn mạnh vào các ba-la-mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục… trong khi tu tập trí tuệ là nhấn mạnh Bát-nhã ba-la-mật. Bồ Tát phải tu tập song song cả phúc đức và trí tuệ, nhưng ở đây nói đến sự nhấn mạnh hơn trong mỗi giai đoạn.

[15] Nguyên tác dùng “ngũ vị” (五 味), tức năm vị khác nhau làm từ sữa, theo trình tự chế biến ngày càng tốt hơn, gồm: nhũ (sữa tươi), lạc (sữa nấu đặc, cũng gọi là cao sữa), sinh tô (váng sữa sống), thục tô (váng sữa chín) và đề-hồ, để chỉ năm tầng bậc giáo pháp được đức Phật tuần tự thuyết giảng, gồm: giáo pháp Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã và cuối cùng là Niết-bàn, Pháp hoa.

[16] Nguyên văn là “天鼓自鳴 - thiên cổ tự minh”, tức là trống của chư thiên, tự phát ra âm thanh mà không cần phải dùng dùi trống đánh vào.

[17] Chín phương, chỉ 4 phương chính là đông, tây, nam, bắc và 4 phương phụ ở giữa là đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc cùng với phương trên tức là hư không. Khi nói thập phương (mười phương) tức là có thêm phương dưới.

[18] Nguyên tác dùng “đại sự” (大事), theo ý nghĩa trong kinh này là chỉ “đại sự nhân duyên” đức Phật ra đời chính là vì chúng sanh “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”.

[19] Nguyên tác dùng “tứ tín đệ tử” (四信弟子), theo ý nghĩa trong kinh Pháp hoa này là chỉ bốn hạng đệ tử được phân chia theo mức độ niềm tin và sự nhận hiểu. Thứ nhất là hạng nghe hiểu, có niềm tin nhưng không thể vì người khác giảng nói; thứ hai là hạng tin nhận và có thể vì người khác giảng giải sơ lược; thứ ba là hạng có niềm tin và nghe nhiều hiểu rộng, có thể vì người khác giảng rộng; thứ tư là hạng tin sâu, hiểu rõ, có khả năng thuyết pháp rộng rãi, đầy đủ cả năng lực quán chiếu và thực hành.

[20] Tức là các phẩm Phân biệt công đức, Công đức tùy hỷ, Công đức pháp sư, Bồ Tát Thường Bất Khinh và Thần lực Như Lai. Các phẩm này đều thuyết dạy công đức của kinh này sau khi Phật diệt độ.

[21] Về bốn hạng đệ tử có niềm tin (四信弟子 - tứ tín đệ tử) này, trong phần sau được Văn Cú gọi là “四依 - tứ y” và phân biệt thành 4 hạng: sơ y nhân (初依人), đệ nhị y nhân (第二依人), đệ tam y nhân (第三依人) và đệ tứ y nhân (第四依人).

[22] Nguyên tác dùng “tam đế” (三諦), chỉ không đế (空諦), giả đế (假諦) và trung đế (中諦) là ba chân lý đạt được nhờ tu tập ba pháp quán: không quán, giả quán và trung quán.

[23] Nguyên tác dùng thiết luân vị (鐵輪位), tức các giai vị thuộc Thập tín (十信), cũng gọi là Tín vị (信位).

[24] Theo Văn Cú ký thì chỗ này lẽ ra là Sơ tín, giai vị đầu tiên của Thập tín, có thể do chép nhầm thành Sơ trụ.

[25] Nguyên tác là “諸有得法者, 懷於增上慢 - chư hữu đắc pháp giả, hoài ư tăng thượng mạn” (những người được pháp mà ôm lòng tăng thượng mạn). Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt khác: “bear the contemptuous words of unbelievers who are rooted in pride” (nhẫn chịu lời khinh chê của những kẻ không có lòng tin và đắm chìm trong sự kiêu mạn). Do khác biệt này, chúng tôi cho rằng bản Hán thật ra muốn nói đến những người “có học pháp”, “được gặp giáo pháp” chứ không phải “đắc pháp” theo nghĩa đã chứng đắc pháp. Như vậy phù hợp hơn với ý nghĩa “tăng thượng mạn”.

[26] Văn Cú nói “tụng ngược” (truy tụng) là vì trong kinh văn trường hàng thì ý nghĩa này nằm trước, nay trong kệ tụng đặt ở sau.

[27] Đèn bơ: loại đèn dùng bơ làm từ sữa để thắp sáng.

[28] Nhất thiết chủng trí (一切種智): trí tuệ rõ biết rộng khắp, bao trùm tất cả, là danh xưng khác để chỉ trí tuệ Phật, cũng gọi là Nhất thiết trí (一切智).

[29] Vàng diêm-phù-đàn (jambūnada-suvarṇa) là loại vàng rất quý có màu vàng pha sắc đỏ, chỉ có ở khúc sông chảy ngang qua rừng cây diêm-phù, nên có tên gọi như vậy.

[30] Nguyên tác là “以界八道 - dĩ giới bát đạo”. Bát đạo là 8 con đường, trong mô tả thế giới ở đây là 8 con đường từ trung tâm đi về 8 hướng. Cách mô tả ở đây là rút ngắn, vì nói đủ là “為繩以界八道 - vi thằng dĩ giới bát đạo” (làm thành dây giăng theo bên đường), có nghĩa là những sợi dây bằng vàng để phân chia lộ giới.

[31] Nguyên tác Hán văn là “頂戴如來 - đỉnh đái Như Lai”. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch từ Phạn ngữ có vẻ như đủ nghĩa hơn: “He who after collecting this Dharmaparyaya into a volume carries it on his shoulder carries the Tathâgata on his shoulder.” (Người nào thu thập quyển kinh này rồi mang vác trên vai tức là đang mang vác đức Như Lai trên vai.)

[32] Bốn sự thiết yếu, chỉ 4 vấn đề cần thiết cho sự tu tập của chư tăng, bao gồm thức ăn uống, y phục, chỗ nghỉ và thuốc men trị bệnh. Kinh văn chỉ nói ngắn gọn là “四事 - tứ sự” (bốn việc).

[33] Tiêu và địch đều là các loại ống sáo, ống tiêu là loại sáo thổi dọc, ống địch là loại sáo thổi ngang.

[34] Ở đây theo sát cách diễn đạt của Hán văn: “作諸殿堂三十有二 - tác chư điện đường tam thập hữu nhị”. Tuy nhiên, bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern mô tả chỗ này là “with thirty-two pinnacles, eight stories” (với 32 ngọn tháp, 8 tầng). Trong sách Tây vực ký, khi mô tả về cách dựng chùa ở Ấn Độ, ngài Huyền Trang viết: “諸僧 伽 藍,頗極奇製。隅樓四起,重閣三層 - Chư tăng già lam phả cực kỳ chế, ngung lâu tứ khởi trùng các tam tằng” (Những ngôi chùa thì có cách xây dựng cực kỳ đặc biệt. Bốn góc chùa đều có lầu, xây cao lên ba tầng.) (Tây vực ký, quyển 2 - ĐCT, T51, 2087, tr. 876a, d. 29) Theo đây mà xét thì rất gần với cách mô tả trong bản Anh ngữ, có thể kinh văn muốn nói đến 32 tòa lầu cao được xây lên chung quanh ngôi chùa chứ không phải 32 tòa điện đường. Những tòa lầu này nhằm mục đích trang trí, tạo ra sự tôn nghiêm chứ không phải để cư trú hay sử dụng.

[35] Cây đa-la (多羅樹) là một loại cây lớn, mô tả ở đây chỉ muốn nói là rất cao, không phải nêu ra một chiều cao chính xác.

[36] Nguyên tác là “百千比丘於其中止 - bá thiên tỳ-kheo ư kỳ trung chỉ”, bản dịch của H. Kern chỉ nói là “fit for a thousand monks” (đủ chỗ cho 1.000 vị tăng).

[37] Sinh thân xá-lợi (生身舍利): tức xá lợi do nhục thân của đức Phật lưu lại sau khi diệt độ.

[38] Hạng đầu tiên trong 5 hạng người vừa nói trên, tức là hạng khởi tâm tùy hỷ.

[39] Nguyên tác dùng sơ thiên (初篇), nhị thiên (二篇). Theo cách phân chia ngũ thiên (五篇) của giới luật thì sơ thiên là các giới ba-la-di, nhị thiên là các giới tăng tàn. Đây là các giới rất nghiêm trọng, nên người đã nghe kinh tùy hỷ, phát triển tâm hiền thiện thì tự nhiên không thể phạm vào.

[40] Nguyên tác nói từ tam thiên (三篇) trở đi, tức là nói đủ tam thiên, tứ thiên và ngũ thiên. Tam thiên là các giới Ba-dật-đề, tứ thiên là các giới Ba-la-đề đề-xá-ni, ngũ thiên là các giới Đột-cát-la. Đây là các giới vi tế, nhỏ nhặt hơn, người thọ giới phải lưu tâm trong từng hành vi, cử chỉ mới có thể không phạm vào.

[41] Nguyên tác dùng “一心 - nhất tâm” để chỉ thiền định. Vì ở đây đang đề cập 6 pháp ba-la-mật nên chúng tôi vẫn dịch là thiền định để dễ nhận hiểu hơn.

[42] Tức là các phương đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.

[43] Nguyên tác Hán văn là “已趣道場,近阿耨多羅三藐三菩提,坐道樹下 - dĩ thú đạo trường, cận A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tọa đạo thụ hạ”, có vẻ như không hợp lý về trình tự khi đặt “ngồi dưới cội Bồ-đề” về cuối cùng. Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern là: “…must be considered to make for the terrace of enlightenment; … steps towards the foot of the tree of enlightenment in order to reach enlightenment” (… phải được xem như xây dựng nền tảng giác ngộ;… bước đến dưới cội cây giác ngộ để đạt đến sự giác ngộ). Chúng tôi cho rằng việc “ngồi dưới cội Bồ-đề” đặt ở trước là hợp lý hơn.

[44] Thiết luân (鐵輪): theo giáo lý tông Thiên Thai tức là hàng Thập tín.

[45] Đồng luân (銅輪): theo giáo lý tông Thiên Thai tức là hàng Thập trụ.

[46] Tám tướng thành Phật: tức là các tướng thị hiện của một vị Phật ra đời, bao gồm: giáng thần, nhập thai, đản sinh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết-bàn.

[47] Văn Cú ký giải thích rằng bốn hạng đệ tử có niềm tin (tứ tín) trong thính chúng khi Phật thuyết giảng kinh này là tương đương với năm hạng người thọ trì kinh Pháp hoa sau khi Phật nhập diệt, chỉ thêm vào yếu tố “tự mình đọc tụng”, tức là hạng người thứ hai.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hai Gốc Cây


Phát tâm Bồ-đề


Chuyện Phật đời xưa


An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự giết hại

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.143 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...